Tránh được béo phì nếu các bạn uống nước mỗi ngày thay vì uống bia

Một khảo sát thực hiện trên 16.000 người trong vòng 4 năm cho thấy một số người thay thói quen uống những thức uống không tốt cho sức khỏe bằng việc uống nước cũng có khả năng giảm cân.

Kết quả được công bố tại Hội nghị Châu Âu về Béo Phì tại Bồ Đào Nha chỉ ra rằng từ loại bỏ thói quen uống 330ml bia một ngày và thay bằng việc uống nước giúp giảm nguy cơ mắc béo phì xuống 20%. Nếu như bạn thay thế 200ml thức uống có gas bằng việc uống nước sẽ giảm nguy cơ mắc béo phì 15%.

Các nhà nghên cứu từ Đại học Navarra, Tây Ban Nha cho biết con số trên đúng ngay cả lúc các yếu tố như mức độ tập luyện, tiền sử gia đình về bệnh béo phì và ăn vặt giữa các bữa ăn đã được tính đến.



Tuy nhưng khảo sát trên 15 loại đồ uống khác gồm những rượu vang, nước trái cây, cà phê và sữa lại cho kết quả khác.

Các chuyên gia cho rằng bia và đồ uồng có gas chứa nhiều calo chính là có nguốn gốc gây béo phì. Một chai bia thường thấy chứa 142 calo trong lúc 1 ly 200ml nước giải khát như Coca cola chứa 78calo

Những người hay uống bia có xu hướng tiêu thụ nhiều calo hơn, tương tự như vào ban đêm khi chúng ta uống đồ uống có đường cũng không tốt cho sức khỏe.

Theo Paul Christiansen - một nhà nghiên cứu về bệnh béo phì tại Đại học Liverpool, đây là một việc làm khác hợp lý, bằng biện pháp này chúng ta đang loại bỏ calo rỗng ra khỏi chính sách ăn hàng ngày. Rượu bản thân nó đã chứa nhiều calo, chỉ đứng Điều tiếp theo sau chất béo và bia thì cũng tương tự như rượu vậy.

“Loại loại bỏ calo rỗng ra khỏi chế độ ăn và chuyển sang uống nước các bạn sẽ thấy rõ ích lợi. Cuối cùng thì nếu các bạn thấy khát, nước vẫn là đồ uống tốt nhất.” Tam Fry tại Diễn đàn bệnh Béo phì Quốc gia cho biết.

Trật khớp vai hay tái phát, vì sao?

Trật khớp vai là bệnh lý thường xuất hiện do chấn thương ở đối tượng trẻ tuổi. Chấn thương thường xảy ra trong sinh hoạt hoặc thể thao, tai nạn giao thông do ngã chống tay hoặc chống khuỷu, cánh tay dạng, đưa ra sau và ngoáy ngoài. Trật khớp vai dễ bị tái lại nhiều lần tác động nặng nề đến hoạt động tay của bệnh nhân. Trên thực tiễn, có người bị bệnh bị trật khớp vai tái hồi tìm đến thầy lang hoặc tự nắn sửa không đúng chuyên môn dẫn đến tình trạng nắn khớp sai kỹ thuật, bất động không đủ thời gian khiến cho hiện tượng trật khớp tái diễn nhiều lần hơn.



Ca bệnh kinh điển

Người bệnh Ng.T.V. (17 tuổi, Hà Nội) kể: Trong một lần đi đánh bóng chuyền không may bị trật khớp vai phải. Anh được các chuyên gia ở địa phương nắn trở lại thông thường. Thời gian sau đó đi chơi thể thao thì khớp vai phải bị trật trở lại, khi tới bệnh viện ở địa phương được các chuyên gia nắn lại và gần đây nhất do sơ ý trong sinh hoạt anh bị ngã nên khớp vai phải lại trật. Anh được cấp cứu tại cơ sở ý tế đa khoa Xanh Pôn. Tại đây, sau lúc chụp cộng hưởng từ khớp vai, các bác sĩ chẩn đoán anh bị rách tổ chức phần mềm phía trước ổ khớp, là bắt nguồn gây ra trật khớp vai tái diễn, cần phải giải phẫu càng sớm càng tốt. Ngay sau đó, anh đã được tiến hành khâu tái tạo sụn viền bằng kĩ thuật Bankart, thời gian mổ mất khoảng 1 tiếng, kết luận giải phẫu tốt và bệnh nhân được ra viện trong ngày hôm sau.

Vì sao trật khớp vai?

Khớp vai là một khớp chỏm cầu, vì vậy biên độ vận động của khớp lớn. Chỏm to, hõm khớp bé, có một sụn viền quanh khớp để cải tiến cho khớp. Khớp vai là khớp dễ bị trật nhất trong cơ thể, thường xảy ra khi té chống tay, đập vai, chấn thương trực tiếp vào vùng vai hoặc những tổn thương nhỏ nhưng lặp đi lặp lại trong các hoạt động hàng ngày hoặc chơi thể thao làm lỏng lẻo dây chằng bao khớp. Các yếu tố thuận lợi gây trật khớp: khớp vai có biên độ vận động lớn, chỏm to hõm nông, các dây chằng bao khớp ở trước dưới yếu.



Dễ bị trật nhiều lần

Sau lần trật Đầu tiên, khớp vai có khả năng trật lại nhiều lần khác gây nên tình trạng trật khớp vai tái hồi. Thương tổn thường xảy ra trong một chấn thương trật khớp vai trước, thường với vai ở tư thế dạng và xoáy ngoài. lúc đầu chỏm xương cánh tay bị đẩy về phía trước, các cấu trúc sụn viền - bao khớp của vai bị kéo căng và thường bị rách. Khi chỏm xương cánh tay trượt xa hơn về phía trước, một tổn thương lún xương xảy ra ở mặt sau trên chỏm xương cánh tay khi nó tiếp xúc với phần trước ổ chảo. tổn thương các cấu trúc mô mềm phía trước đặc biệt nghiêm trọng trong trường hợp trật khớp tái diễn vì các tác nhân điều hòa tĩnh của khớp vai (ví dụ, bao khớp, sụn viền) ngày càng trở nên suy yếu sau mỗi lần tái phát trật khớp. Sự suy yếu này lại càng khiến chỏm xương cánh tay bị tổn thương do phần xương xốp tương đối mềm này lại tiếp tục bị tỳ nén bởi phần xương ổ chảo trước cứng hơn.

Trật khớp vai tái hồi không chỉ tác động đến sinh hoạt mỗi ngày, sức lao động và tác dụng chơi thể thao của bệnh nhân mà còn gây thoái hóa khớp vai và giảm chức năng vai về sau. Do nhu cầu hoạt động vai nhiều. lúc bị trật nhiều lần sẽ gây rách rộng thêm các cấu tạo sụn viền và dây chằng bao khớp, lâu ngày làm khuyết xương, gãy mảnh xương, rách gân cơ chóp xoáy dẫn đến khớp vai lỏng lẻo, mất chức năng và yếu lực nên sức vận động sẽ kém, đau vai và khó khăn trong các hoạt động đặc biệt là tư thế giơ tay cao quá đầu.

Tuân thủ chữa trị

Lúc chấn thương bị trật khớp vai, người bị bệnh cận tới bênh viện chuyên khoa để được các chuyên gia khám và chữa trị đúng kỹ thuật. Đã có bệnh nhân bị trật khớp vai tái hồi tìm đến thầy lang hoặc tự nắn sửa không đúng chuyên môn dẫn tới tình trạng nắn khớp sai kỹ thuật, bất động không đủ thời gian làm hiện tượng trật khớp tái diễn nhiều lần hơn.

Đối với trật khớp vai mới: có người bệnh cần gây tê để nắn, thêm thuốc giãn cơ, nắn nhẹ nhàng và bất động bằng đai tư thế vai dang-xoay ngoài đủ thời gian, hướng dẫn phương pháp tập phục hồi chức năng nhằm lấy lại tầm vận động khớp, sức mạnh cơ bắp nhằm sớm trở lại sinh hoạt hàng ngày, lao động nặng và chơi lại thể thao.

Đối với trật khớp vai tái diễn: sau khi cho rằng thương tổn cần dựa vào các thăm dò hình ảnh chuyên biệt như cộng hưởng từ hoặc chụp cắt lớp vi tính có dựng hình 3D. Một số tác giả mô tả các thương tổn trên Xquang thường quy và các tư thế chuyên biệt cũng như siêu âm tuy nhiên thường xuất hiện ý nghĩa với những tổn thương khuyết xương lớn. Điều trị không phẫu thuật được xác định trong trường hợp tổn thương nhỏ. Các xác định phẫu thuật cho thương tổn phụ thuộc vào ý nghĩa lâm sàng của tổn thương và dấu hiệu của trật khớp.

U thận, giảm thị lực: Là bệnh gì?

Hội chứng von Hippel - Lindau

Bệnh von Hippel - Lindau hay còn được gọi là hội chứng von Hippel - Lindau (VHL) là một loại bệnh có tính chất di truyền theo nhiễm đun thể trội. Bệnh ảnh hưởng tới nhiều cơ quan của cơ thể như não, tụy, gan, thận, mắt… và có khả năng diễn tiến từ tính chất lành tính sang ác tính tùy từng trường hợp. Đây là một bệnh hiếm gặp với tần suất mắc vào khoảng 1/ 35.000 - 1/ 40.000 dân.



Cho dù có nguyên nhân do đột biến gene và có đặc tính di truyền, khoảng 20% các trường hợp mắc bệnh VHL không có tiền sử gia đình và tùy theo vị trí gene bị đột biến, bệnh VHL được phân chia thành các týp 1, týp 2, týp 3 với các tổn thương phối hợp như u tủy thượng thận, ung thư thận hay chứng đa hồng cầu (polycythaemia) kèm theo.

Theo các khảo sát đã được công bố, nếu gia đình có người bố mắc bệnh VHL mà đối tượng mẹ hoàn toàn khỏe mạnh thì 50% số con cái sinh ra sẽ bị mắc bệnh này với tần suất phân bố chia đều cho cả nam và nữ là 50/50.

Đi tìm lời giải

Người bệnh VHL có nguy cơ cao bị u mạch máu (hemangioblastomas) của hệ thần kinh trung ương; u máu võng mạc (retinal angiomas); u hệ bạch huyết; ung thư thận; u tủy thượng thận; u thần kinh - nội tiết ở tụy; u mào tinh hoàn ở nam và các khối u buồng trứng ở phụ nữ.

Các u máu ở hệ thần kinh trung ương (não và tủy sống) cỡ khoảng 40 - 80% các trường hợp VHL, thể hiện thiết yếu ở độ tuổi 30, tuy cũng có một số trường hợp biểu hiện ở lứa tuổi trẻ hơn hoặc già hơn. Đây là một thương tổn lành tính, nằm rải rác ở tiểu não, tủy sống hoặc đôi lúc có nhiều u liên tiếp kéo dài theo trục não - tủy sống. bình thường, các khối u này không có biểu hiện gì đặc biệt trừ trường hợp vỡ ra gây xuất huyết tiểu não hoặc tủy sống. Việc phát hiện u máu hệ thần kinh trung ương dựa trên chụp cộng hưởng từ là thiết yếu. chữa trị những loại u này bằng phương pháp đốt bằng sóng radio hoặc giải phẫu mở.

U máu võng mạc có ở 60% các bệnh nhân bị bệnh VHL. Đây là loại tổn thương phát triển thành nhiều ổ, nằm chung quanh hoặc gần đĩa thị giác với tần suất bị cả hai mắt vào khoảng 50% số các trường hợp với độ tuổi hay gặp là 25. Khối u võng mạc thường không có biểu hiện gì cho đến lúc phát triển lớn lên gây thương tổn đáy mắt khiến giảm hoặc mất thị lực hoàn toàn. Chẩn đoán u máu võng mạc dựa trên soi đáy mắt và chụp mạch máu có tiêm fluorescein. điều trị u máu võng mạc bằng chất ngăn cản các thụ thể nhân tố phát triển nội mạc mạch máu hoặc đốt bằng sóng radio có thể hồi phục được thị lực người bệnh.

Các khối u nang nội bạch huyết gặp ở 11% số người bị bệnh bị bệnh VHL. Nang nội bạch huyết có vị trí nằm ở phần cuối trong ống bạch huyết của ống tai trong, giữa màng cứng và hố sau. Khối u của nang này phát triển mạnh ở độ tuổi từ 12 - 50 với đỉnh cao là khoảng 22 tuổi. Khối u phát triển lên gây giảm thính lực hoặc điếc hoàn toàn. Việc phát hiện khối u dựa trên chụp CT hoặc cộng hưởng từ (MRI). điều trị chủ yếu bằng giải phẫu mở hoặc đốt bằng sóng radio.

Ung thư thận hay carcinomas tế bào thận là biểu hiện ung thư chính của bệnh VHL với tỷ lệ mắc từ 24 - 45% và nếu kết hợp với các nang tại thận thì tỷ lệ mắc chiếm tới 60%. Carcinomas thận xảy ra nhiều ở lứa tuổi trên dưới 40, tiến triển thầm lặng không có triệu chứng trong một thời gian khá dài và lúc phát hiện thường đã có xâm lấn sang tổ chức chung quanh với các thể hiện như đau vùng hố thắt lưng, tiểu máu. Chụp cắt lớp hoặc cộng hưởng từ ổ bụng có khả năng dễ dàng chỉ định chẩn đoán. chữa trị carcinomas thận bằng giải phẫu loại bỏ hoặc có khả năng bảo tồn trong một số trường hợp.

U tủy thượng thận có ở 10 - 20% số người bệnh bị VHL và lứa tuổi mắc vào khoảng 30 và 5% trong số này có biểu hiện ác tính. dấu hiệu chính của u tủy thượng thận là những cơn tăng huyết áp kịch phát, dao động và khó kiểm soát cộng với những xuất hiện do cơn tăng huyết áp gây ra như đau đầu, nôn, đột quỵ não. xác định u tuyến thượng thận bằng chụp cắt lớp hoặc cộng hưởng từ ổ bụng sau đó điều trị bằng thuốc hoặc phẫu thuật nếu cần.

U nang tuyến (cystadenomas) và các khối u thần kinh - nội tiết của tụy (pancreatic neuroendocrine tumors) cũng là một tổn thương hay gặp ở người bệnh VHL với tỷ lệ mắc có khả năng lên tới 70% cho cả hai loại và thường gặp ở lứa tuổi 18 - 48. Các u nang tuyến thường lành tính và không cần điều trị gì đặc hiệu trong khi các u thần kinh - nội tiết tại tụy lại thường xuyên cần được phẫu thuật do có tính chất ác tính và khả năng di cư khá cao. Nhìn chung, cho rằng mổ đối với các u tại tụy dựa vào kích thước khối u trên 3cm ở vị trí thân và đuôi tụy, 2cm ở đầu tụy.

Ngoài các khối u tại các cơ quan nêu trên, ở người bệnh VHL, các khối u mào tinh hoàn ở nam và u dây chằng rộng ở phụ nữ cũng cần được tìm kiếm thông qua thăm khám lâm sàng và các phương tiện chẩn đoán hình ảnh như siêu âm, chụp cắt lớp hoặc chụp cộng hưởng từ. Tần suất mắc các khối u loại này vẫn chưa có thống kê chính xác và trên thực tiễn hiếm gặp hơn những loại u khác như đã mô tả như trên.



Chỉ dẫn của thầy thuốc

Mặc dù là một bệnh hiếm gặp nhưng với tính chất ác tính, gây tổn thương cùng khi ở nhiều cơ quan, bệnh cảnh lâm sàng phong phú đa dạng, gặp ở nhiều lứa tuổi và có tính chất gia đình do đột biến gene, bệnh VHL luôn luôn cần được tìm kiếm ở bất cứ đối tượng nào có các thể hiện nghi ngờ để từ đó có giải pháp theo dõi và điều trị kịp thời cho người bệnh.

Các triệu chứng của bệnh von Hippel – Lindau lần Đầu tiên được các nhà nhãn khoa chú ý và mô tả vào những năm 1860 với tổn thương kiểu u mạch máu ở võng mạc (retinal angiomas) và thương tổn cũng giống ở tiểu não. Năm 1904, Eugen von Hippel, một nhà nhãn khoa người Đức đã cho công bố những khảo sát của Ông về một loại u mạch võng mạc có tính chất gia đình do đột biến gene. Năm 1926, Arvid Lindau, nhà bệnh học người Thụy Điển, lần Đầu tiên cho thấy mối liên quan giữa chứng u mạch võng mạc với các thương tổn ở não, tụy, thận…và cho tới năm 1936, thuật ngữ “hội chứng, (hay bệnh) von Hippel – Lindau” lần Đầu tiên được sử dụng và phổ biến cho tới ngày nay.

Hạ huyết áp với chế độ ăn nhiều kali, ít đường

Có hàng triệu người trên thế giới đang vật lộn với các bệnh tim mạch cũng như tăng huyết áp. Số liệu thống kê của WHO cho thấy người bệnh tim mạch do tăng huyết áp đang chiếm tỷ lệ rất cao. Các chương trình sức khỏe cộng đồng đang cố gắng hướng tới việc tuyên truyền cho mọi đối tượng về việc tăng cường các đồ ăn giàu Kali vào bữa ăn hàng ngày để phòng chống tăng huyết áp cũng như bệnh tim mạch và bệnh thận.



Thiếu hụt Kali hay còn gọi là hiện tượng hạ kali máu được coi là nghiệm trọng và có khả năng dẫn đến nguy cơ tử vong. Một trong số những hậu quả của việc thiếu hụt kali đó chính là tăng huyết áp, nhưng vẫn còn rất nhiều những dấu hiệu khác cũng do việc thiếu hụt kali gây ra đó là:
  • Mệt mỏi
  • Yếu cơ
  • Đau bụng và vọp bẻ
  • Nhịp tim không bình thường
  • Tê liệt cơ
Kali- một loại muối tốt

Có một đôi nét về kali mà không nhiều đối tượng biết đến. Đầu tiên, Kali là một loại chất khoáng thiết yêu cho cơ thể, nhưng chúng cũng là chất điện giải và đóng vai trò rất cần trong việc sự ổn định huyết áp. mặc dù có muôn vàn khảo sát có ý kiến trái ngược nhau nhưng sự thật là việc cân bằng mức độ natri- kali trong cơ thể là điều hết sức thiết yêu.

Món ăn giàu potassium có khả năng giúp hạ huyết áp

Một vài người có nồng độ kali trong máu cao thường có huyết áp thấp hơn, chính vì thế các loại thực phẩm có chứa nhiều kali đương nhiên sẽ rất tốt cho những người tăng huyết áp. Một chế độ ăn giúp cân đối được mức độ natri-kali nạp vào đó là ăn các món ăn tươi sống, và giàu kali.




Đây là một số gợi ý về món ăn giàu kali: quả bơ, rau chân vịt, nấm, súp lơ xanh, cải Brussels, cần tây, xà lách Romaine, các loại rau lá xanh, chuối, cà chua, khoai lang, cam, mơ, cá hồi hoang dã. Những hoa quả bạn chọn lựa trong chế độ ăn nên là các loại quả ít ngọt để giảm thiểu được mức độ fructose. ngoài ra bạn cũng có thể thử nước ép từ quả lựu đỏ vừa giúp hạ huyết áp vừa giúp chống lão hóa. Do trong lựu đỏ có nhiều chất chống oxi hóa nên nó cũng giúp bạn chống trọi được bệnh ung thư, tim mạch. Lựu đỏ còn chứa nhiều tannin,anthocyanin và axit ellagic nhiều hơn trà xanh và rượu vang đỏ.

Những hợp chất chống oxi hóa từ hoa quả được chứng minh là có ảnh hưởng tích cực tìm tới trình trạng tim mạch gây ra mất mạng bảo vệ được hệ thống tim mạch toàn diện. Một khảo sát khác còn cho thấy một cốc việt quất hàng ngày có khả năng giúp hạ huyết áp và giãn mạch.

Những loại sữa chua được làm từ sữa của động vật ăn cỏ giàu lợi khuẩn sẽ giúp cân bằng được huyết áp. Một khảo sát khác cũng cho thấy lợi khuẩn có trong sữa chua sẽ giúp bạn điều chỉnh được chỉ số cholesterol và đường huyết. Một lượng nhỏ sô cô la đến nguyên chất có chứa flavonoid cũng giúp vững chắc được thành mạch.

Thay đổi lối sống cũng là một cách hạ huyết áp

Nhiều đối tượng nói rằng họ muốn có một lối sống lành mạnh, nhưng rât tương đối ít đối tượng có thể theo đuổi một phương pháp nghiêm túc từ ngày này qua ngày khác. Huyết áp tác động tới tất cả các cơ quan trong cơ thể. vì vậy mục tiêu của một lối sống khỏe mạnh vẫn quan tâm nhất vào công việc như thế nào để sự ổn định được huyết áp.

Giảm bớt chỉ số muối nạp vào là một cách thông minh và một cách khác nữa là giảm chỉ số đường nạp vào. Nếu muối đã không hề tốt cho sức khỏe thì đường còn không tốt nữa.

Tránh xa những thực phẩm chế biến sẵn vì các loại này chứa nhiều muối tinh, đường tinh chế- đây mới chính là thủ phạm thực sự của bệnh tăng huyết áp mà từ đó dẫn đến nhiều bệnh khác như rối loạn chuyển hóa, xơ vữa động mạch và đột quỵ tim. Ngày càng nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng đường là nhân tố gây ra nhiều di chứng của cao huyết áp. Trên thực tế một khảo sát dã cho thấy phụ nữ uống một lon nước ngọt hằng ngày sẽ có huyết áp cao hơn một vài người uống tương đối ít hơn thế.

Làm cho như thế nào để giảm huyết áp tự nhiên

Đa phần các bác sỹ đều khuyên người bị bệnh tăng huyết áp cao nên có một lối sống lành mạnh và uống thuốc theo đơn. Nhưng nếu như có một lối sống lành mạnh đủ tốt thì có lẽ bạn cũng không cần đến những viên thuốc hạ áp nữa. Một lối sống lành mạnh không chỉ tốt cho sức khỏe nói chung, ngăn ngừa được nhiều bệnh mà còn không tiêu tốn nhiều thời gian, tiền bạc của các bạn nữa. sau đây là một vài hướng dẫn nho nhỏ:

Hít thở. Hít sâu thở chậm, kiểm soát được nhịp thở, giúp cải thiện nhịp tim, điều hoà việc co giãn mạch linh hoạt hơn do đó huyết áp cũng được điều hoà theo.

Thư giãn. Stress luôn đem đến nhiều tác động bất lợi đến cơ thể các bạn hơn các bạn nghĩ. Giận dỗi, tức giận khiến cho sinh ra những hóc môn ảnh hưởng đến các trình trạng tim mạch. bởi thế các bạn phải học phương pháp kiểm soát, thư giãn cơ thể.

Cắt giảm chỉ số cà phê và đồ uống có cồn. Cà phê nếu uống một mức độ vừa phải và uống đúng biện pháp sẽ có những khả năng rất tốt đến cơ thể. Nhưng dối với một vài người lạm dụng cà phê thì lại dẫn đến nhiều nguy cơ sức khỏe hơn, chưa kể là các loại cà phê hòa tan luôn luôn chứa lượng đường lớn hơn cà phê vì vậy mà việc cắt giảm cà phê cũng nên được tiến hành. Đồ uống có cồn cũng thế, cũng là một loại đồ uống kích thích cơ thể. do vậy việc cắt giảm hai loại đồ uống này cũng đúng tức là thư giãn cơ thể.

Đi bộ và tập thể dục thường xuyên góp phần làm việc bơm máu đi khắp cơ thể được công dụng hơn, giảm được áp lực lên động mạch. Chỉ cần 150 phút tập thể dục cường độ trung bình hoặc đi bộ hoặc 75 phút tập thể dục cường độ mạnh như bài tập HIIT sẽ giúp các bạn ngăn ngừa được nhiều bệnh tật hơn.

Giảm cân và duy trì cân nặng thích hợp luôn là một trong những biện pháp tốt nhất để ngăn ngừa các bệnh mạn tính không lây.

Triệu chứng đầu nhỏ và virus Zika

Tháng 10 năm 2015, Brazil chứng kiến sự tăng thêm không bình thường của các ca chứng đầu nhỏ ở trẻ sơ sinh - một loại bệnh với xuất hiện kích thước đầu của trẻ nhỏ hơn vô vàn so với thông thường.

Sự gia tăng của các ca bệnh này có liên quan đến virus Zika được truyền qua muỗi với những triệu chứng nhiễm virus nhẹ hoặc cứ 1 trong 4 đối tượng nhiễm virus không thể hiện bất cứ triệu chứng nào.

Trung tâm Kiểm soát và phòng chống dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) cho biết, trong 250 người mang thai được xác nhận là nhiễm virus Zika năm 2016 chỉ có 24 trường hợp công nhận có con bị dị tật bẩm sinh tác động đến virus Zika.

Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã công nhận việc này vào năm 2016, nhưng Brazil lại báo cáo rằng mối liên quan giữa nhiễm virus Zika và chứng chứng đầu nhỏ cũng như hội chứng Guillain-Barré vẫn chưa được chứng minh một cách rõ ràng.



Hơn thế nữa, trên thực tế, nếu như virus Zika gây nên chứng chứng đầu nhỏ ở Brazil thì năm 2016 sẽ chính là năm bùng phát của dịch này đặc biệt là trong mùa muỗi tiến triển như tháng 12, 1 và tháng 2. Mặc khác một chuyên gia của WHO cho biết: họ đã ghi nhận được nhiều ca nhiễm virus Zika năm 2016 nhưng không có trường hợp nào được báo cáo là bị chứng chứng đầu nhỏ.

Trước khi virus Zika lan rộng ra khắp Brazil, tỷ lệ các ca chứng đầu nhỏ không hề cao, do đó chúng ta cần nên nghĩ rằng chưa chắc là chỉ có mỗi virus Zika mới gây nên chứng đầu nhỏ.

Các nhà chức trách ước tính rằng năm 2016 sẽ có 1.000 ca chứng đầu nhỏ xảy ra ở đông bắc Brazil nhưng chỉ có 80 ca được báo cáo. vấn đề này có khả năng được giải thích bằng 3 giả thuyết sau:

Có thể năm 2016 chúng ta nhiễm một loại virus khác

Các nhà khoa học chỉ định, việc bùng phát dịch virus Zika năm 2015 khiến con người xuất hiện quá trình miễn dịch năm 2016. Như vậy có thể sự làm tăng các ca bệnh Guillan-Barre không hoàn toàn do virus Zika mà là nhờ một loại arbovirus được truyền qua muỗi Aedes aegypti, ví dụ như virus chikungunya được biết đến như là có nguốn gốc gây nên bệnh Guillan-Barre. Theo giả thuyết này, cả virus Zika và chikungunya có thể dẫn tới bệnh Guillan-Barre, nhưng chỉ có Zika mới được cho là có tác động đến chứng đầu nhỏ. Nếu đúng như vậy thì điều gì đã xảy ra với virus Zika vào năm 2016.

Có thể các trường hợp đó đã bị chẩn đoán sai, nghĩa là không có nhiều trường hợp nhiễm Zika vào năm 2016. Tuy vậy nhưng nhiều chuyên gia không hưởng ứng với giả thuyết này.

Bác sỹ Albert Ko- một tư vấn viên dịch tễ học của Trường Y tế công cộng thuộc Đại học Yale cho biết chẩn đoán sai có thểxảy ra nhưng nó không phải là lời giải thích thỏa đáng cho tất cả câu chuyện diễn ra ở đây.

Có thể virus Zika không phải là bắt nguồn duy nhất gây nên chứng đầu nhỏ

Nhiều nhà khoa học xác định nhiễm virus Zika trong suốt liệu trình mang bầu là điều kiện cần cho việc phát triển chứng đầu nhỏ ở trẻ sơ sinh. Hiểu cách khác sự hiện diện của những tác nhân khác còn chưa theo tìm hiểu đến mới là điều kiện đủ cho bệnh Guillain-Barre. Vậy những bắt nguồn chưa như đã tìm hiểu đến ở đây có khả năng là gì? một câu hỏi đã được đưa ra trước đó, bởi khi những ca chứng đầu nhỏ thứ nhất thể hiện và chúng được thông báo là có liên quan đến virus Zika, các bác sĩ y tế xác định có khả năng sẽ biểu hiện làn sóng dị tật não bẩm sinh ở Brazil, nhưng điều đó lại không hề xảy ra.

Thay vào đó gần 90% các ca chứng đầu nhỏ năm 2015 ở brazil đều xảy ra ở phía đông bắc. Đa số các nữ giới sinh con ở đây đều nghèo và sống trong những thành phố nhỏ hoặc sống trong những khu ở chuột ở những thành phố lớn.

Theo các nhà khoa học, họ đã ngoại trừ hiệu quả thuốc trừ sâu cũng là một nhân tố tham gia vào việc phát triển chứng chứng đầu nhỏ ở trẻ sơ sinh. Nhưng vẫn còn muôn vàn tác nhân ảnh hưởng như việc thiếu vệ sinh, thiếu Vitamin A, thiếu kẽm trên diện rộng dẫn tới tình trạng sức khỏe kém ở trẻ sơ sinh trong khu vực này
Tuy vậy nhưng những người khác lại cho rằng sốt dengue (sốt xuất huyết)cũng do muỗi Aedes lây truyền có thể liên quan.

Nỗi sợ virus Zika gây bệnh làm các phụ nữ muốn sinh con ít hơn

Đây cũng có khả năng là một giả thuyết có thể xảy ra, do những lo ngại về virus Zikanên nhiều nữ giới không muốn mang thaihoặc đi phá thai. Nhưng việc này chỉ có thể khiến cho giảm một số mức độ rất nhỏ chứ tương đối ít như những gì đối tượng ta thống kê được.

Một nghiên cứu trên chuột cho thấy 80% những con chuột tiếp xúc với kháng thể kháng virus dengue trước sau đó lại tiếp xúc với virus Zika sẽ ảnh hưởng tới tính mạng trong khi nếu không tiếp xúc thì chỉ là 10%. tức là nhiễm virus dengue trước khi nhiễm virus Zika sẽ làm cho hiện tượng bệnh trở lên nghiêm trọng hơn. Đặc biệt việc thiếu hụt vitamin A và kẽm cũng có tác động đến nguy cơ cao bị bệnh nhiễm trùng cũng như có vai trò trong việc cấu trúc , tham gia vào chức năng của não bộ. Trung tâm kiểm soát và ngăn ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ đã đưa suy dinh dưỡng và nhiễm hóa chất độc hại là hai trong 3 nhân tố nguy cơ gây ra bệnh chứng đầu nhỏ. yếu tố thứ ba là nhiễm khuẩn khi mang bầu bao gồm rubela, cytomega virus, toxoplas và nhiều virus, vi khuẩn khác.

Những biến đổi thầm kín của ngực theo thời gian

​Từ chồi vú ban đầu, vú các bạn sẽ tiến triển hoàn thiện

Có thể bạn chưa biết, sau khi chồi vú tiến triển lần đầu, vào những năm đầu tuổi dậy thì, vú của các bạn sẽ tiếp tục tiến triển kể cả khi các bạn không cảm nhận rõ điều đó. thông thường, vú sẽ tiếp tục phát triển trong vòng tương đối ít nhất 5 năm sau khi các bạn có chu kỳ kinh nguyệt lần Thứ nhất và bước vào tuổi dậy thì. Khoảng thời gian này có thể sẽ không giống nhau tùy từng đối tượng.

Thời kỳ hoàng kim của ngực

Vú và ngực của các bạn sẽ tiến triển tràn đầy và trông đầy đặn, quyến rũ nhất trong những năm các bạn 20 tuổi và đầu những năm 30 tuổi. Vú của bạn trông sẽ căng tròn, được che phủ bởi lớp da căng mịn (trừ lúc ngực của các bạn quá to). Ngực của bạn sẽ căng cứng và trông săn chắc bởi mật đô mô vú thời kỳ này rất dày.



Ngực của bạn sẽ sưng lên tạm thời

Sau lúc kết thúc tuổi dậy thì, ngực của các bạn có thể sẽ trông không…to như bạn mong đợi, nhưng ngực các bạn sẽ còn biến đổi vô vàn trong những giai đoạn thay đổi hormone, ví dụ như quanh chu kỳ kinh nguyệt, khi các bạn có bầu hoặc lúc bạn biến đổi cân nặng đáng kể.

Một trong số các yếu tố có tác động lớn nhất đến kích cỡ ngực của các bạn là sự thay đổi hormone. lên cân và giảm cân trong suốt thời gian sống cũng có khả năng gây nên những không giống nhau lớn về kích cỡ ngực. một số người sẽ lên cân trực tiếp tại vùng ngực, vì vậy, ngực sẽ tiến triển lớn hơn và lúc họ giảm cân, kích thước ngực cũng sẽ giảm đi.

Nếu ngực bạn lớn hơn lúc bạn đang cho con bú, thì sau khi các bạn cai sữa, ngực của các bạn sẽ trở về kích thước ban đầu.

Núm vú cũng có khả năng sẽ thay đổi

Ngoài việc làm cho ngực bạn phát triển lớn hơn và tạo ra sữa (do biến đổi hormone), thì có thai cũng có khả năng sẽ khiến màu núm vú của bạn thay đổi, trở nên tối màu hơn và làm cho núm vú to hơn. một vài người phụ nữ biết được mình đang có chữa thông qua việc cảm nhận ngực của họ đang tiến triển lớn hơn và trông khác hơn so với khi trước.

Sau thời gian mang thai, núm vú của các bạn sẽ sáng màu trở lại như thông thường. Với một số phụ nữ, núm vú có thể sẽ tụt lại một chút vào trong, nhưng với một số nữ giới khác, sau lúc có chữa, núm vú sẽ to hơn trước mãi mãi và không thể trở về như trước kia được.

Ngực của các bạn sẽ trở nên mềm hơn

Sau tuổi 30, bạn có thể sẽ cảm thấy ngực của mình trở nên mềm hơn. Ngực mềm hơn cũng có thể là dấu hiệu cho thấy bạn đang giảm được một vài cân, nhưng bình thường, ngực mềm hơn chỉ là do dấu hiệu của lão hóa. Sau tuổi 30, ngực của các bạn từ săn chắc sẽ trở nên mềm hơn do mật độ các mô kết nối trong ngực sẽ được thay thế bởi mỡ.



Ngực của các bạn có khả năng sẽ bị xệ

Bước vào giai đoạn sau mãn kinh, bạn sẽ phải nói lời chào tạm biệt với bộ ngực đầy đặn, săn chắc, thay vào đó chính là một bộ ngực lưu thông xệ. khi chúng ta lớn tuổi, da sẽ bị giãn ra và chảy xệ, đó là nguyên nhân vì sao ngực của các bạn cũng bị chảy xệ xuống, kể cả nếu ngực bạn không lớn lắm.

Nhiều đối tượng chỉ định, chỉ có những người có ngực to thì mới bị chảy xệ ngực, nhưng kể cả những người ngực nhỏ cũng có khả năng bị lưu thông xệ. Trọng lực cũng đóng một vai trò rất cần trong việc giúp cho ngực bạn bị lưu thông xệ. Nếu muốn khống chế hiện tượng này, các bạn có khả năng thử mặc một loại áo ngực mềm và thoải mái vào buổi tối. Việc này sẽ giúp ngực được hỗ trợ, nâng đỡ mà không bị chảy xệ về hướng mà các bạn nằm nghiêng về.

Ngực sẽ giảm kích thước và da sẽ trùng hơn

Da sẽ mất đi độ đàn hồi và lớp hạ bì của da sẽ dày hơn, khiến cho da bị mất đi phần nhiều độ căng mịn và trở nên trùng, giãn hơn. Sau thời kỳ mãn kinh, chỉ số estrogen của phụ nữ sẽ giảm đi và điều này sẽ làm ngực các bạn sẽ giảm kích thước đi một biện pháp đáng kể.

Ngực cũng nhạy cảm với ánh nắng mặt trời

Nếu bạn muốn ngực của các bạn luôn luôn tươi trẻ càng lâu càng tốt, thì bạn đừng quên chăm sóc ngực của mình mỗi khi tiếp xúc với ánh nắng mặt trời.

Nếu da ở vùng ngực phải tiếp xúc nhiều với ánh nắng mặt trời, thì da ở đây cũng sẽ bị lão hóa cũng giống với da ở các vùng khác khi phải tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Da vùng ngực cũng có khả năng sẽ biểu hiện nếp nhăn và trông già hơn. vì thế dùng kem chống nắng phù hợp cho vùng ngực là cần thiết khi các bạn tiếp xúc nhiều với ánh nắng mặt trời.

Ngực sẽ nhạy cảm hơn với các kích thích ngoài da

Ngực càng xệ trong thời gian dài, thì các bạn càng dễ tiến triển các trình trạng ảnh hưởng đến da do nứt, rạn da. Nếu ngực bị xệ quá nhiều, các bạn sẽ ra nhiều mồ hôi hơn, và do vậy, sẽ dễ bị mẩn đỏ hoặc bị đổi màu da. Những nữ giới có màu da sáng thường sẽ cảm nhận vùng da dưới ngực sẽ chuyển dang màu hồng sậm hơn, trong khi những nữ giới da tối màu sẽ thấy vùng da ở đây trở nên tối màu hơn.

Ngực sẽ mất đi độ nhạy cảm

Cảm giác nhạy cảm mà bạn cảm thấy được quanh núm vú hoặc quầng vú là bởi các dây thần kinh nằm bên trong ngực. Nếu ngực của bạn nhỏ, các dây thần kinh sẽ nằm gần nhau và bạn sẽ cảm nhận nhạy cảm hơn. Theo thời gian, nếu ngực các bạn lớn hơn và bị xệ, thì các dây thần kinh cũng sẽ bị tách ra xa nhau và vì thế, bạn sẽ nhận thấy kém nhạy cảm hơn.

Những vấn đề của thực phẩm thay đổi gen

Một vài ý kiến chỉ định món ăn thay đổi gen không tốt cho sức khỏe con đối tượng. Nhưng cũng có rất nhiều ý kiến lại ủng hộ những lợi ích của thức ăn biến đổi gen đem đến cho con người và các trình trạng toàn cầu.
Một cuộc điều tra năm 2015 của trung tâm khảo sát Pew đã chỉ ra hai mặt của điều này. Gần 9 trên 10 nhà khoa học của hiệp hội khoa học hiện đại Mỹ chỉ định món ăn thay đổi gen nhìn chung là an toàn. Nhưng nếu các bạn là một trong số một số người dân tiêu thụ thực phẩm thay đổi gen mỗi ngày thì có lẽ các bạn sẽ nói là chúng ta không nên ăn.



Bắt chước tự nhiên

Hãy bắt đầu với những điều cơ bản. biến đổi gen không phải là điều gì xa lạ. bình thường thay đổi gen vẫn xảy ra trong tự nhiên. Tất nhiên sự thay đổi gen hiện tại không cũng giống như vài nghìn năm trước.

Gen chịu trách nhiệm về hầu hết các đặc tính và đặc trưng của mọi sinh vật từ những cơ chế phức tạp cho đến những công thức đơn thuần. Các đặc tính đó giúp sinh vật tồn tại và phát triển, sống sót và được truyền từ đời này qua đời khác trở thành một tính chất chung.

Tổ tiên của chúng ta đã góp phần thúc đẩy quá trình này lúc họ lưu lại các hạt giống để trồng trong các vụ mùa tới. đó là những thay đổi để từ một cây cỏ qua hàng nghìn năm trở thành cây lúa hay ngô của chúng ta hiện nay.

Để đẩy nhanh tiến trình đó các nhà khoa học đã ảnh hưởng vào vật chất di truyền, sửa đổi chúng bằng hóa chất hoặc tia xạ sau đó là chọn giống. Hoặc họ có thể lấy một hoặc một vài gen từ động vật, thực vật, vi khuẩn và cấy vào để tăng những tính năng mong muốn. Những sự chuyển đổi có đích và chuẩn xác này chính là kỹ thuật biến đổi gen mà chúng ta gọi tắt là GMO. Đôi khi các nhà khoa học chuyển một gen từ một cũng giống này sang tương tự khác của cùng một loài hoặc khác loài.

Vậy thì vấn đề cần quan tâm ở đây là gì?

Nhờ có những sự chuyển đổi trên mà đu đủ không bị nhiễm virus, ngô vẫn sống tốt trong điều kiện hạn hán, đậu tương có khả năng tự diệt được cỏ dại, khoai tây không bị thâm tím, cây trồng phát triển tốt hơn và tương đối ít tốn tiền tiền bạc về nhiều mặt hơn. đó chính là những tin tốt cho việc bổ sung thức ăn và cho việc kinh doanh nông nghiệp.

Đặc biệt một số thực phẩm thay đổi gen còn được khiến giàu thêm nhiều vitamin, muối khoáng và các chất có ích cho sức khỏe khác. Ví dụ, ví dụ các nhà khoa học Thụy Sỹ đã tạo ra được một giống gạo vàng có chứa vô số beta caroten – một chất chống oxi hóa tốt cho mắt và da. Đậu nành có chứa các chất béo tương tự như dầu oliu có thể chuyển đổi thành các chất béo lành mạnh thay thế cho chất béo dạng tran mà lại chịu được nhiệt nên đun nướng sẽ tốt hơn nhiều. Những quả khoai tây chống thâm sẽ được giúp con đối tượng giảm nguy cơ bị ung thư do cắt giảm được các hóa chất tạo ra lúc chiên khoai tây.

Một vài nơi làm việc công nghệ sinh học cũng thử nghiệm những loại thịt tốt hơn cho chúng ta như tăng mức độ chất omega 3- là một chất béo giúp ngăn ngừa bệnh tim mạch và đột quỵ và giúp chống lại ung thư và nhiều bệnh khác như lupus, eczema và viêm khớp những chất này cơ thể không thể tự tạo ra được mà phải lấy từ thực phẩm.

Tăng thêm dân số luôn đi kèm với nhu cầu lương thực. Tổ chức nông lương thế giới (FAO) của Liên hợp quốc ước tính quá trình sản xuất cần nên tăng lên gấp đôi để đáp ứng kịp nhu cầu tăng dân số đến năm 2050. GMO là một biện pháp tốt để đảm bảo an ninh lương thực và đủ hoạt chất cũng như khống chế được việc ô nhiễm môi trường, đất nước, không khí.

Nhưng nhiều người đang lo âu về trình trạng thụ phấn và hạt cũng giống từ những cây trồng thay đổi gen đang trải đầy trên các cánh đồng hoặc điều gì sẽ xảy ra nếu những động vật thay đổi gen phối hợp với những loài không biến đổi gen.

Món ăn biến đổi gen có an toàn không?

Vô số ý kiến chỉ định ADN trong những thực phẩm biến đổi gen chính là các chất độc – Tiến sỹ Alison Van Eenennaam, tư vấn viên về công nghệ gen và sinh học động vật của trường Đại học California cho biết. Tiến sỹ Allison cũng nói thêm AND thường xuyên là một phần trong chế độ ăn hàng ngày của chúng ta, chúng được tiêu hóa trong dạ dày cùng với phần thức ăn chúng ta ăn vào. ADN không hề có dấu vết độc hại nào.



“Bưởi đào mà chúng ta ăn chính là một đột biến tự nhiên tạo ra, chúng ta vẫn ăn hàng ngày mà có thấy ai kêu là chúng độc hại gì đâu. Rất không quá nhiều người đặt thắc mắc về những đột biến tự nhiên đó có an toàn hay không nhưng lại cảm nhận khó chịu với những đột biến được tạo ra trong phòng thí nghiệm một phương pháp cố ý” đó là ý kiến của một khảo cứu sinh đối tượng Mỹ trong lĩnh vực dinh dưỡng phần tử.

Một nhóm các nhà khoa học đã rà soát kỹ lưỡng độ an toàn của các cây trồng thay đổi gen trong 10 năm qua và họ nhận định không thấy những nhân tố có hại nào về mặt di truyền học ở những sản phẩm này

Hiệp hội y học Mỹ cho rằng món ăn thay đổi gen không hề có hại bởi đã được minh chứng trong suốt 20 năm qua không hề thấy có dấu vết của việc đồ ăn biến đổi gen tác động tới sức khỏe con đối tượng.

Và tổ chức Y tế thế giới hoàn toàn ủng hộ quan điểm đó. WHO và FAO đã cố gắng duy trì một loạt đúng chuẩn khoa học, lời khuyên và thực hành tốt trong bộ quy chuẩn riêng cho thức ăn biến đổi gen để đảm bảo độ an toàn cho con người. Bộ tiêu chuẩn này bao gồm cả các quy định về công nghệ sinh học và công nghệ di truyền. Chính phủ của rất nhiều quốc gia đều lấy đây là tài liệu chuẩn cho những quy định và luật pháp tại các nước sở tại

Nhưng vẫn có sự khác nhau lớn giữa những quan điểm của các nhà khoa học và các bác sỹ - Tiến sỹ Stephen MacDonald một nhà tư vấn về công nghệ sinh học và chiến lược kinh doanh đồng ý với quan điểm hầu hết các thức ăn là nhu yếu phẩm đều có cách tạo ra tương tự nhau. cho dù vậy nhưng vị tiến sỹ này lại không bao giờ ăn đồ ăn biến đổi gen vì xác định các loại thực phẩm này không có giá trị dinh dưỡng cao và không hoàn toàn tin tưởng những thực phẩm này an toàn.

Trong vòng 60 năm qua ước tính có khoảng 3000 loại biến đổi gen được tiến hành trên những loại hạt giống gieo trồng.

FDA và thức ăn thay đổi gen

FDA là cơ quan quản lý về thực phẩm và dược phẩm của Mỹ, đây là cơ quan được tin tưởng nhất trên thế giới về việc kiểm duyệt thuốc và thức ăn. Một phần việc làm của FDA là bảo đảm những thực phẩm dù thay đổi gen hay không biến đổi gen đều được an toàn khi đến tay đối tượng tiêu dùng. Thông qua chương trình tư vấn công nghệ sinh học cây trồng, FDA đã rấy lên mối chú trọng đến sự an toàn trong quy trình kỹ thuật và hỗ trợ các nhà phát triển công nghệ sinh học nhận ra các loại thử nghiệm họ nên dùng.

Một nhóm các nhà khoa học của FDA sẽ xem xét cẩn thận các kiến thức mà các nhà bổ sung dịch vụ đưa cho họ. Họ sẽ xem xét kỹ công nghệ thay đổi gen trong thức ăn và so sánh với thức ăn nguyên bản để xem liệu giá trị dinh dưỡng có không giống nhau gì không hoặc những lại gen mới được tạo ra có hại gì không. Ví dụ như tương tự đậu tương của Brazil được làm giàu protein không được phép khiến cho món ăn của con người sau lúc được kiểm duyệt, thậm chí còn không được làm cho thức ăn chăn nuôi vì nó gây ra các phản ứng dị ứng cho con người.

Chúng ta không thể bị nhiễm bệnh hoặc nhiễm virust từ thực vật nhưng từ động vật thì có thể có, như cúm lơn và cúm gia cầm. Vì chúng ta sử dụng virus để khiến cho công cụ chuyển vật liệu di truyền nên một số người lo ngại rằng những ảnh hưởng này có khả năng làm cho con người mắc nhiễm bệnh khi ăn thực phẩm biến đổi gen

Đó chính là bắt nguồn vì sao FDA đưa ra những cách tiếp cận hơi khác với các sản phẩm động vật biến đổi gen. FDA đã ban hành bộ hướng dẫn để giúp những cơ sở làm việc chuyên sản xuất sản phẩm thay đổi gen đáp ứng đúng với những đạt chuẩn khe khắc của bộ quy chuẩn. Trung tâm thú y của Mỹ cho biết những loài vật biến đổi gen khác với những gì các cơ sở làm việc sản xuất nói là thịt động vật đó an toàn. không những thế FDA cũng đề nghị hiệp hội chế độ môi trường mỹ xem xét các ảnh hưởng của những sản phẩm biến đổi gen với môi trường chẳng hạn như có dễ lây bệnh trong tự nhiên hay không. Đối với loại cá hồi thay đổi gen chỉ cần một nửa thời gian so với thông thường để tiến triển được đúng kích thước. FDA muốn biết hiệu quả những con cá này khi phối hợp với những con cá thông thường liệu có sinh ra những thế hệ tiếp theo có duy trì được gen đó hay không hoặc chúng sẽ sống sót thế nào. Để giảm thiểu rủi ro, các công ty trên buộc phải nuôi tại các sơ sở an toàn ở Canada và Panama nơi mà các bể nuôi cá không có bất kỳ kết nối nào với nước và thậm chó còn có cả những rào chắn và lưới để phòng ngừa các cũng như trứng cá không thoát ra ngoài cũng như chim và các loài ăn thịt khác không thể xâm nhập vào được. Cá hồi được nuôi trong điều kiện vô trùng kể cả thức ăn cũng phải vô trùng.

Một đồ ăn biến đổi gen đẽ không được phép lưu hành tại Mỹ khi chưa được sự kiểm chứng an toàn của FDA. Cuối cùng, các cơ sở làm việc sản xuất sẽ chịu trách nhiệm hầu hết trách nhiệm pháp lý về an toàn thức ăn như bất cứ sản phẩm nào con đối tượng ăn.

Vậy thức ăn thay đổi gen có khiến thay đổi ADN con người

cho dù điều đó chưa bao giờ trước đây nhưng một số người vẫn có lỗi lo rằng khi ăn đồ ăn thay đổi gen sẽ gây biến đổi ADN của con đối tượng. Nhưng nhưng vật liệu di truyền không thể dính một cách dễ dàng đến thế. Một gen được thêm bào sẽ không có chuyện rơi ra và gắn vào gen của bạn.

Các enzyme và quy trình chống trọi vi khuẩn của cơ thể con người được thiết kế để nhận diện ra một cuộc xâm lược di truyền và ngăn ngừa điều này xảy ra. Theo báo cáo của hội đồng hiệp hội Y học Mỹ giải thích: nếu một mần bệnh bằng biện pháp nào đó có thể sống sót sau liệu trình tiêu hóa và gia nhập vào hệ vi khuẩn tiêu hóa thì bản thân nó phải có những đặc trưng di truyền giống như ADN của con đối tượng và quan trong là đúng nơi, đúng thời điểm để qua mắt được hệ miễn dịch của con đối tượng rồi mới đến tác dụng chúng gắn vào được hệ thống gen con đối tượng nhân lên và thay đổi gen đó.

Trên thực nghiệm những thứ bạn ăn đều là những gen ngoại lai với cơ thể. cho dù vậy các nhà khoa học vẫn vô ngần thận trọng lúc sử dụng công nghệ gen bởi chúng ta vẫn chưa biết hết những gì ẩn dấu trong gen.

Có những gì trong thực phẩm của các bạn

Cho dù bạn có khả năng không nhận ra nhưng 80% những thực phẩm chế biến sẵn ở Mỹ đều nguyên nhân từ thức ăn thay đổi gen.

Phần nhiều đường chúng ta ăn là đường từ củ cải, nhưng những củ cải này đều được biến đổi gen. Việc thay đổi gen làm cho những củ cải này ngày càng to hơn và nhiều đường hơn, chịu được điều kiện thời tiết khắc nghiệt hơn và cho năng suất cao hơn. Và dù có từ bất kể lấy từ cội nguồn nào thì chúng ta vẫn chỉ nhận diện được đó chính là đường.

Bắp biến đổi gen là nuồn để chế biến ra rất nhiều loại thực phẩm không giống nhau như bột ngô dể làm cho súp và nước sốt cũng như xi rô ngô để làm chất tạo ngọt cho thực phẩm và đồ uống. Dầu hạt cải dầu canola và dầu đậu nành để làm cho xốt mayo, xốt trộn salat, ngũ cốc, bánh mỳ và thức ăn nhẹ.

Nhưng theo phương pháp nào thì món ăn biến đổi gen cũng chiếm 90% mức độ đồ ăn chăn nuôi. Các nghiên cứu cũng cho thấy không có sự khác nhau giữa thịt, sữa trứng và các đồ ăn khác đến từ động vật ăn món ăn công nghiệp này với động vật được nuôi thông thường

Và bản thân những động vật này cũng khỏe mạnh như những động vật không ăn thực phẩm biến đổi gen. Chính FDA cũng đã tìm ra được cách để chứng minh cho sự an toàn của món ăn chăn nuôi biến đổi gen.

Có thể tránh được đồ ăn biến đổi gen hay không?

Trung Quốc, Úc và các nước châu Âu đều yêu cầu món ăn thay đổi gen phải được dán nhãn, những Mỹ thì lại không.

FDA của Mỹ thường xuyên ủng hộ việc dán nhãn một phương pháp tự nguyện và đã đưa ra lời đề nghị này với các nhà sản xuất. Cơ quan này cũng lấy ý kiến của người dân về dự định này,
Thắc mắc đặt ra ở đây những gì cần nên được dãn nhãn. thực phẩm tạo ra bằng biện pháp thay đổi gen bằng bức xạ hoặc hóa chất không nằm trong mục đồ ăn thay đổi gen nên không thể dãn nhãn. Các phương pháp kỹ thuật đi truyền mới nhất không còn tương thích với những quy định trong bộ quy chẩn do vậy chúng cũng không được dán nhãn. Nhưng điều rất cần là gen đã bị con người biến đổi ép buộc chứ không phải là tự nhiên. Đó mới là quy tắc luôn luôn đúng khi nói về đồ ăn biến đổi gen.
Nếu các bạn muốn tránh thực phẩm thay đổi gen thì các bạn nên lựa chon những sản phẩm được gắn nhã hữu cơ chưa qua chế biến.

Sơ cứu đúng chuẩn khi gặp người bị tai nạn giao thông

Đứng trước thực trạng khi gặp nạn nhân bị tai nạn giao thông nhiều người không dám vào sơ cứu vì sợ làm cho nặng thêm thương tổn, TS.BS Hoàng Bùi Hải, Khoa Cấp cứu & Hồi sức tích cực, BV ĐH Y Đà Nẵng tóm tắt một số thông tin cơ bản, giúp người chứng kiến tự tin hơn khi sơ cứu tai nạn thương tích trên đường phố.

Bước 1: Nhanh chóng gọi người hỗ trợ.

Bước 2: Xem nạn nhân có bị ngừng tim chưa (gọi hỏi không biết, ngừng thở hoặc thở ngáp, mạch cổ không đập). Nếu có ngừng tim cần để nạn nhân nằm ngửa nhẹ nhàng, duỗi thằng chân tay, tránh gập cổ…rồi ép tim ngay, đặt 2 tay chồng lên nhau giữa ngực nạn nhân và ép thật mạnh, thật nhanh, thả tay để ngực nở tối đa sau mỗi lần ép tim. Ép tim liên tục không nghỉ, sau 2 phút có người thay. Ép cho đến lúc tim đập lại (tỉnh ra, thở được, có mạch cổ đập), hoặc cho đến khi nhân viên cứu hộ chuyên nghiệp đến.



Chỉ di chuyển nạn nhân bị ngừng tim vào trung tâm y tế khi tim đã đập lại. Nếu nạn nhân vẫn tỉnh, hoặc lơ mơ, vẫn tự thở thì sang bước 3.

Bước 3: Đặt nạn nhân nằm nghiêng an toàn, nằm nghiêng một bên, 2 tay duỗi, một chân vắt chéo sang bên đối diện.

Bước 4. Cố định cột sốt cổ, yêu cầu cột sống cố phải thẳng với trục cơ thể. Có thể dung 2 bao cát hay 2 viên gạch chèn 2 bên tai lúc người bệnh nằm.

Bước 5: Tìm các vết thương lưu thông máu để cầm máu, bằng phương pháp băng ép bằng quần áo, dây. Với nạn nhân chảy máu ở đầu, đối tượng cứu phải quấn băng quanh đầu để cầm máu, nhưng vẫn phải luôn giữ đầu cố định.

Bước 6: Cố định các vết thương gẵy xương như xương đùi, xương cẳng tay bằng nẹp, giúp bớt đau cho nạn nhân.

Bước 7: Di chuyển nạn nhân vào bệnh viện gần nhất bằng xe cứu thương, có khả năng bằng ô tô…tuyệt đối không vận chuyển bằng xe máy. Giữ tư thế đầu thẳng với trục cơ thể trong suốt liệu trình vận chuyển.

Lưu ý: Phải bảo vệ cột sống cổ của người bị bệnh khi di chuyển bằng phương pháp một đối tượng đỡ đầu để thẳng trục với thân, một đối tượng xốc nách từ sau, một đối tượng đỡ hai chân cả 3 đối tượng cùng lùi cùng tiến. Để đầu, cột sống cổ luôn luôn thẳng trục với thân mình.

Nhiều trường hợp người bị bệnh vẫn sáng suốt, nhưng chấn thương cột sống cổ mất vững, lúc di chuyển và sơ cứu, đối tượng giúp đỡ vô tình xốc ngược người mắc nạn lên, cổ không được bảo vệ gây đứt tủy cổ dẫn tới nạn nhân choáng tủy có thể chết ngay, hoặc có khả năng bị liệt cơ hô hấp, liệt tứ chi không khôi phục. Đây là sai lầm dễ từng mắc của người cứu hộ thiếu nội dung.

Mẹo nhỏ phòng ngừa các bệnh răng miệng

Các bệnh về răng miệng có thể gặp ở mọi lứa tuổi. bởi thế, việc phong chống các bệnh răng miệng cũng không phải là trình trạng riêng của ai.



Mẹo nhỏ phong chống các bệnh răng miệng

Sức khỏe răng miệng tốt không chỉ mang lại ích lợi cho khoang miệng, mà còn nhiều lợi ích hơn thế. Người bị các bệnh lý răng miệng thường:
  • không còn tự tin
  • Gặp khó khăn trong nghề nghiệp đặc biệt những nghề nghiệp đòi hỏi kỹ năng giao tiếp
  • Không thoải mái
  • Gặp trình trạng về phát âm
  • Suy dinh dưỡng
  • Gặp trở ngại trong việc nuốt
Những nhiễm trùng hoặc ung thư khoang miệng nếu không được điều trị có khả năng gây nên hậu quả nghiêm trọng là ảnh hưởng đến tính mạng. Một số phương pháp phòng ngừa các bệnh răng miệng mà chúng ta đều biết tới như khám răng định kỳ, chải răng và dùng chỉ tơ nha khoa thường xuyên. mặc khác có một số người, cần đặc biệt chú ý, chú ý hơn.

Trẻ em

Sâu răng sớm ở trẻ em hoặc hội chứng sâu răng do bú bình là những biểu hiện không giống nhau của bệnh tình sâu răng. Ở giai đoạn đầu, biểu hiện những đốm trắng trên răng ở vị trí gần đường viền lợi. Những đốm trắng này sẽ chuyển dần sang màu nâu theo tiến triển quá trình sâu răng. Điều trị sâu răng ở giai đoạn sớm đóng vai trò rất cần giúp giảm mức độ trầm trọng sâu răng. Đường còn sót lại trên răng là có nguồn gốc của sâu răng sớm ở trẻ em. Đường có khả năng từ sữa, nước trái cây hoặc món ăn. dưới đây là một số biện pháp để phòng ngừa sâu răng sớm ở trẻ em :

Khống chế cho trẻ bú bình

Không trẻ ngủ bằng cách bú bình. Sữa hoặc nước trái cây trong khoang miệng chính là môi trường lí tưởng cho vi khuẩn tiến triển.

Trước lúc răng mọc, vệ sinh khoang miệng cho trẻ bằng miếng khăn sạch, mềm và mỏng, tiến hành 2 lần/ngày
Sau lúc trẻ mọc răng, chuyển sang thói quen chải răng bằng nước sạch. Không sử dụng kem đánh răng cho đến lúc trẻ biết nhổ trong lúc đánh răng. Nuốt kem đánh răng có thể gây nên triệu chứng nhiễm fluor, khi cơ thể hấp thụ quá nhiều fluor, thể hiện răng thể hiện những đốm trắng hoặc sần sùi.

Nên cai sữa cho trẻ khi bé được 1 tuổi. Cho trẻ dùng cốc, chén thay vì sử dụng bình.

Phụ nữ

Phụ nữ có những sự biến đổi khác nhau về răng miệng trong từng giai đoạn.

Thanh thiếu niên



Sự bắt đầu chu kỳ kinh nguyệt có thể đi kèm với đó chính là nhiệt miệng, sưng lợi.

Trong độ tuổi sinh đẻ

Bệnh quanh răng gia tăng nguy cơ sinh non, em bé nhẹ cân hơn bình thường. vì vậy, cần tạo lập thói quen vệ sinh thật tốt.

Mang thai

Trong lúc mang bầu, nồng độ progesterone ở mức cao nhất và các hormone khác khiến phá vỡ cân xứng bình thường của cơ thể. điều này gây ra viêm lợi, nước bọt tăng hoặc giảm tiết, có sự tiến triển thất thường của các khối trên lợi giống như khối u, lành tính gọi là u hạt. hiện tượng luôn nôn do ốm nghén làm tăng công dụng sâu răng do lớp men răng bị xói mòn. Cần tham khảo ý kiến của nha sỹ hoặc bác sỹ chuyên khoa, không hủy bỏ các cuộc hẹn với nha sỹ để tiến hành đúng phương pháp vệ sinh răng miệng cho khả năng.

Mãn kinh

Lúc nữ giới trong thời kỳ mãn kinh, sự giảm, thiếu hụt của hormone estrogen gia tăng nguy cơ mắc bệnh lý quanh răng, hội chứng rát miệng. tình trạng này được đặc thù bởi cảm giác ngứa, biến đổi vị giác trên lưỡi. có thể điều trị bằng các thuốc dạng kem, viên ngậm hoặc thuốc uống.

Đối tượng già

Khi có tuổi, chức năng nhai trở nên kém tác dụng, đặc biệt khi mất răng, đeo răng giả. Một số thuốc đang sử dụng có tác dụng không mong muốn là khô miệng, gây ra khó nuốt, suy dinh dưỡng. Thêm nữa, giảm tiết nước bọt tạo điều kiện cho vi khuẩn tích tụ gây hôi miệng, các bệnh về lợi và nhiễm trùng.

Theo Trung tâm kiểm soát và phòng tránh dịch bệnh (CDC), 23% người có độ tuổi từ 65 – 74 tuổi có hiện tượng viêm bệnh quanh răng nghiêm trọng.

Đối tượng cần chăm sóc đặc biệt

Những người sống trong các cơ sở chăm sóc dài hạn không chỉ bao gồm người già, mà còn cả trẻ em và người trưởng thành bị khuyết tật về thể chất hoặc tinh thần. Sức khỏe răng miệng miệng của họ phụ thuộc nhiều vào người chăm sóc. tuy vậy nhưng, vấn đề này rất khó bởi sự không hiểu ý hay không hợp tác giữa người chăm sóc và đối tượng được chăm sóc. do vậy, cần có những cách thức chuyên biệt như kìm giữ hoặc dùng thuốc để thực hiện vệ sinh răng miệng.

Người mắc bệnh HIV hoặc AIDS

Người bệnh HIV hoặc AIDS dễ bị nhiễm trùng cơ hội trong khoang miệng. Mảng trắng mờ trên lưỡi gọi là bạch sản lông là những giai đoạn sớm của nhiễm trùng HIV hoặc AIDS. bên cạnh đó, những bệnh nhân này có khả năng nhiễm nấm miệng như histoplasmosis, aspergillosis và candida.

Mẹo nhỏ bảo vệ sức khỏe răng miệng

Trong khi những đối tượng kể trên cần có những chú ý đặc biệt, thì toàn bộ mọi đối tượng đều nên tạo thói quen giữ gìn sức khỏe khỏe miệng:
  • Kiểm tra sức khỏe răng miệng định kỳ 1 – 2 lần/năm
  • Chải răng bằng kem đánh răng có chứa fluor không nhiều nhất 2 lần/ ngày
  • Thay bàn chải hoặc đầu bàn chải 3 – 4 tháng/lần
  • Dùng chỉ tơ nha khoa không nhiều nhất 1 lần/ngày
  • Chải lưỡi
Dùng thêm nước súc miệng hoặc các phương pháp bổ sung thêm flour (nếu cần)
Đi kiểm tra nha sỹ hoặc bác sỹ chuyên khoa lúc có các dấu hiệu:
  • Lợi sưng, đỏ, chảy máu
  • Răng nhạy cảm với nóng, lạnh
  • Khó nhai
  • Hôi miệng kéo dài
  • Mất răng vĩnh viễn sớm
  • Đau răng
  • Ổ áp-xe