Tránh được béo phì nếu các bạn uống nước mỗi ngày thay vì uống bia

Một khảo sát thực hiện trên 16.000 người trong vòng 4 năm cho thấy một số người thay thói quen uống những thức uống không tốt cho sức khỏe bằng việc uống nước cũng có khả năng giảm cân.

Kết quả được công bố tại Hội nghị Châu Âu về Béo Phì tại Bồ Đào Nha chỉ ra rằng từ loại bỏ thói quen uống 330ml bia một ngày và thay bằng việc uống nước giúp giảm nguy cơ mắc béo phì xuống 20%. Nếu như bạn thay thế 200ml thức uống có gas bằng việc uống nước sẽ giảm nguy cơ mắc béo phì 15%.

Các nhà nghên cứu từ Đại học Navarra, Tây Ban Nha cho biết con số trên đúng ngay cả lúc các yếu tố như mức độ tập luyện, tiền sử gia đình về bệnh béo phì và ăn vặt giữa các bữa ăn đã được tính đến.



Tuy nhưng khảo sát trên 15 loại đồ uống khác gồm những rượu vang, nước trái cây, cà phê và sữa lại cho kết quả khác.

Các chuyên gia cho rằng bia và đồ uồng có gas chứa nhiều calo chính là có nguốn gốc gây béo phì. Một chai bia thường thấy chứa 142 calo trong lúc 1 ly 200ml nước giải khát như Coca cola chứa 78calo

Những người hay uống bia có xu hướng tiêu thụ nhiều calo hơn, tương tự như vào ban đêm khi chúng ta uống đồ uống có đường cũng không tốt cho sức khỏe.

Theo Paul Christiansen - một nhà nghiên cứu về bệnh béo phì tại Đại học Liverpool, đây là một việc làm khác hợp lý, bằng biện pháp này chúng ta đang loại bỏ calo rỗng ra khỏi chính sách ăn hàng ngày. Rượu bản thân nó đã chứa nhiều calo, chỉ đứng Điều tiếp theo sau chất béo và bia thì cũng tương tự như rượu vậy.

“Loại loại bỏ calo rỗng ra khỏi chế độ ăn và chuyển sang uống nước các bạn sẽ thấy rõ ích lợi. Cuối cùng thì nếu các bạn thấy khát, nước vẫn là đồ uống tốt nhất.” Tam Fry tại Diễn đàn bệnh Béo phì Quốc gia cho biết.

Trật khớp vai hay tái phát, vì sao?

Trật khớp vai là bệnh lý thường xuất hiện do chấn thương ở đối tượng trẻ tuổi. Chấn thương thường xảy ra trong sinh hoạt hoặc thể thao, tai nạn giao thông do ngã chống tay hoặc chống khuỷu, cánh tay dạng, đưa ra sau và ngoáy ngoài. Trật khớp vai dễ bị tái lại nhiều lần tác động nặng nề đến hoạt động tay của bệnh nhân. Trên thực tiễn, có người bị bệnh bị trật khớp vai tái hồi tìm đến thầy lang hoặc tự nắn sửa không đúng chuyên môn dẫn đến tình trạng nắn khớp sai kỹ thuật, bất động không đủ thời gian khiến cho hiện tượng trật khớp tái diễn nhiều lần hơn.



Ca bệnh kinh điển

Người bệnh Ng.T.V. (17 tuổi, Hà Nội) kể: Trong một lần đi đánh bóng chuyền không may bị trật khớp vai phải. Anh được các chuyên gia ở địa phương nắn trở lại thông thường. Thời gian sau đó đi chơi thể thao thì khớp vai phải bị trật trở lại, khi tới bệnh viện ở địa phương được các chuyên gia nắn lại và gần đây nhất do sơ ý trong sinh hoạt anh bị ngã nên khớp vai phải lại trật. Anh được cấp cứu tại cơ sở ý tế đa khoa Xanh Pôn. Tại đây, sau lúc chụp cộng hưởng từ khớp vai, các bác sĩ chẩn đoán anh bị rách tổ chức phần mềm phía trước ổ khớp, là bắt nguồn gây ra trật khớp vai tái diễn, cần phải giải phẫu càng sớm càng tốt. Ngay sau đó, anh đã được tiến hành khâu tái tạo sụn viền bằng kĩ thuật Bankart, thời gian mổ mất khoảng 1 tiếng, kết luận giải phẫu tốt và bệnh nhân được ra viện trong ngày hôm sau.

Vì sao trật khớp vai?

Khớp vai là một khớp chỏm cầu, vì vậy biên độ vận động của khớp lớn. Chỏm to, hõm khớp bé, có một sụn viền quanh khớp để cải tiến cho khớp. Khớp vai là khớp dễ bị trật nhất trong cơ thể, thường xảy ra khi té chống tay, đập vai, chấn thương trực tiếp vào vùng vai hoặc những tổn thương nhỏ nhưng lặp đi lặp lại trong các hoạt động hàng ngày hoặc chơi thể thao làm lỏng lẻo dây chằng bao khớp. Các yếu tố thuận lợi gây trật khớp: khớp vai có biên độ vận động lớn, chỏm to hõm nông, các dây chằng bao khớp ở trước dưới yếu.



Dễ bị trật nhiều lần

Sau lần trật Đầu tiên, khớp vai có khả năng trật lại nhiều lần khác gây nên tình trạng trật khớp vai tái hồi. Thương tổn thường xảy ra trong một chấn thương trật khớp vai trước, thường với vai ở tư thế dạng và xoáy ngoài. lúc đầu chỏm xương cánh tay bị đẩy về phía trước, các cấu trúc sụn viền - bao khớp của vai bị kéo căng và thường bị rách. Khi chỏm xương cánh tay trượt xa hơn về phía trước, một tổn thương lún xương xảy ra ở mặt sau trên chỏm xương cánh tay khi nó tiếp xúc với phần trước ổ chảo. tổn thương các cấu trúc mô mềm phía trước đặc biệt nghiêm trọng trong trường hợp trật khớp tái diễn vì các tác nhân điều hòa tĩnh của khớp vai (ví dụ, bao khớp, sụn viền) ngày càng trở nên suy yếu sau mỗi lần tái phát trật khớp. Sự suy yếu này lại càng khiến chỏm xương cánh tay bị tổn thương do phần xương xốp tương đối mềm này lại tiếp tục bị tỳ nén bởi phần xương ổ chảo trước cứng hơn.

Trật khớp vai tái hồi không chỉ tác động đến sinh hoạt mỗi ngày, sức lao động và tác dụng chơi thể thao của bệnh nhân mà còn gây thoái hóa khớp vai và giảm chức năng vai về sau. Do nhu cầu hoạt động vai nhiều. lúc bị trật nhiều lần sẽ gây rách rộng thêm các cấu tạo sụn viền và dây chằng bao khớp, lâu ngày làm khuyết xương, gãy mảnh xương, rách gân cơ chóp xoáy dẫn đến khớp vai lỏng lẻo, mất chức năng và yếu lực nên sức vận động sẽ kém, đau vai và khó khăn trong các hoạt động đặc biệt là tư thế giơ tay cao quá đầu.

Tuân thủ chữa trị

Lúc chấn thương bị trật khớp vai, người bị bệnh cận tới bênh viện chuyên khoa để được các chuyên gia khám và chữa trị đúng kỹ thuật. Đã có bệnh nhân bị trật khớp vai tái hồi tìm đến thầy lang hoặc tự nắn sửa không đúng chuyên môn dẫn tới tình trạng nắn khớp sai kỹ thuật, bất động không đủ thời gian làm hiện tượng trật khớp tái diễn nhiều lần hơn.

Đối với trật khớp vai mới: có người bệnh cần gây tê để nắn, thêm thuốc giãn cơ, nắn nhẹ nhàng và bất động bằng đai tư thế vai dang-xoay ngoài đủ thời gian, hướng dẫn phương pháp tập phục hồi chức năng nhằm lấy lại tầm vận động khớp, sức mạnh cơ bắp nhằm sớm trở lại sinh hoạt hàng ngày, lao động nặng và chơi lại thể thao.

Đối với trật khớp vai tái diễn: sau khi cho rằng thương tổn cần dựa vào các thăm dò hình ảnh chuyên biệt như cộng hưởng từ hoặc chụp cắt lớp vi tính có dựng hình 3D. Một số tác giả mô tả các thương tổn trên Xquang thường quy và các tư thế chuyên biệt cũng như siêu âm tuy nhiên thường xuất hiện ý nghĩa với những tổn thương khuyết xương lớn. Điều trị không phẫu thuật được xác định trong trường hợp tổn thương nhỏ. Các xác định phẫu thuật cho thương tổn phụ thuộc vào ý nghĩa lâm sàng của tổn thương và dấu hiệu của trật khớp.

U thận, giảm thị lực: Là bệnh gì?

Hội chứng von Hippel - Lindau

Bệnh von Hippel - Lindau hay còn được gọi là hội chứng von Hippel - Lindau (VHL) là một loại bệnh có tính chất di truyền theo nhiễm đun thể trội. Bệnh ảnh hưởng tới nhiều cơ quan của cơ thể như não, tụy, gan, thận, mắt… và có khả năng diễn tiến từ tính chất lành tính sang ác tính tùy từng trường hợp. Đây là một bệnh hiếm gặp với tần suất mắc vào khoảng 1/ 35.000 - 1/ 40.000 dân.



Cho dù có nguyên nhân do đột biến gene và có đặc tính di truyền, khoảng 20% các trường hợp mắc bệnh VHL không có tiền sử gia đình và tùy theo vị trí gene bị đột biến, bệnh VHL được phân chia thành các týp 1, týp 2, týp 3 với các tổn thương phối hợp như u tủy thượng thận, ung thư thận hay chứng đa hồng cầu (polycythaemia) kèm theo.

Theo các khảo sát đã được công bố, nếu gia đình có người bố mắc bệnh VHL mà đối tượng mẹ hoàn toàn khỏe mạnh thì 50% số con cái sinh ra sẽ bị mắc bệnh này với tần suất phân bố chia đều cho cả nam và nữ là 50/50.

Đi tìm lời giải

Người bệnh VHL có nguy cơ cao bị u mạch máu (hemangioblastomas) của hệ thần kinh trung ương; u máu võng mạc (retinal angiomas); u hệ bạch huyết; ung thư thận; u tủy thượng thận; u thần kinh - nội tiết ở tụy; u mào tinh hoàn ở nam và các khối u buồng trứng ở phụ nữ.

Các u máu ở hệ thần kinh trung ương (não và tủy sống) cỡ khoảng 40 - 80% các trường hợp VHL, thể hiện thiết yếu ở độ tuổi 30, tuy cũng có một số trường hợp biểu hiện ở lứa tuổi trẻ hơn hoặc già hơn. Đây là một thương tổn lành tính, nằm rải rác ở tiểu não, tủy sống hoặc đôi lúc có nhiều u liên tiếp kéo dài theo trục não - tủy sống. bình thường, các khối u này không có biểu hiện gì đặc biệt trừ trường hợp vỡ ra gây xuất huyết tiểu não hoặc tủy sống. Việc phát hiện u máu hệ thần kinh trung ương dựa trên chụp cộng hưởng từ là thiết yếu. chữa trị những loại u này bằng phương pháp đốt bằng sóng radio hoặc giải phẫu mở.

U máu võng mạc có ở 60% các bệnh nhân bị bệnh VHL. Đây là loại tổn thương phát triển thành nhiều ổ, nằm chung quanh hoặc gần đĩa thị giác với tần suất bị cả hai mắt vào khoảng 50% số các trường hợp với độ tuổi hay gặp là 25. Khối u võng mạc thường không có biểu hiện gì cho đến lúc phát triển lớn lên gây thương tổn đáy mắt khiến giảm hoặc mất thị lực hoàn toàn. Chẩn đoán u máu võng mạc dựa trên soi đáy mắt và chụp mạch máu có tiêm fluorescein. điều trị u máu võng mạc bằng chất ngăn cản các thụ thể nhân tố phát triển nội mạc mạch máu hoặc đốt bằng sóng radio có thể hồi phục được thị lực người bệnh.

Các khối u nang nội bạch huyết gặp ở 11% số người bị bệnh bị bệnh VHL. Nang nội bạch huyết có vị trí nằm ở phần cuối trong ống bạch huyết của ống tai trong, giữa màng cứng và hố sau. Khối u của nang này phát triển mạnh ở độ tuổi từ 12 - 50 với đỉnh cao là khoảng 22 tuổi. Khối u phát triển lên gây giảm thính lực hoặc điếc hoàn toàn. Việc phát hiện khối u dựa trên chụp CT hoặc cộng hưởng từ (MRI). điều trị chủ yếu bằng giải phẫu mở hoặc đốt bằng sóng radio.

Ung thư thận hay carcinomas tế bào thận là biểu hiện ung thư chính của bệnh VHL với tỷ lệ mắc từ 24 - 45% và nếu kết hợp với các nang tại thận thì tỷ lệ mắc chiếm tới 60%. Carcinomas thận xảy ra nhiều ở lứa tuổi trên dưới 40, tiến triển thầm lặng không có triệu chứng trong một thời gian khá dài và lúc phát hiện thường đã có xâm lấn sang tổ chức chung quanh với các thể hiện như đau vùng hố thắt lưng, tiểu máu. Chụp cắt lớp hoặc cộng hưởng từ ổ bụng có khả năng dễ dàng chỉ định chẩn đoán. chữa trị carcinomas thận bằng giải phẫu loại bỏ hoặc có khả năng bảo tồn trong một số trường hợp.

U tủy thượng thận có ở 10 - 20% số người bệnh bị VHL và lứa tuổi mắc vào khoảng 30 và 5% trong số này có biểu hiện ác tính. dấu hiệu chính của u tủy thượng thận là những cơn tăng huyết áp kịch phát, dao động và khó kiểm soát cộng với những xuất hiện do cơn tăng huyết áp gây ra như đau đầu, nôn, đột quỵ não. xác định u tuyến thượng thận bằng chụp cắt lớp hoặc cộng hưởng từ ổ bụng sau đó điều trị bằng thuốc hoặc phẫu thuật nếu cần.

U nang tuyến (cystadenomas) và các khối u thần kinh - nội tiết của tụy (pancreatic neuroendocrine tumors) cũng là một tổn thương hay gặp ở người bệnh VHL với tỷ lệ mắc có khả năng lên tới 70% cho cả hai loại và thường gặp ở lứa tuổi 18 - 48. Các u nang tuyến thường lành tính và không cần điều trị gì đặc hiệu trong khi các u thần kinh - nội tiết tại tụy lại thường xuyên cần được phẫu thuật do có tính chất ác tính và khả năng di cư khá cao. Nhìn chung, cho rằng mổ đối với các u tại tụy dựa vào kích thước khối u trên 3cm ở vị trí thân và đuôi tụy, 2cm ở đầu tụy.

Ngoài các khối u tại các cơ quan nêu trên, ở người bệnh VHL, các khối u mào tinh hoàn ở nam và u dây chằng rộng ở phụ nữ cũng cần được tìm kiếm thông qua thăm khám lâm sàng và các phương tiện chẩn đoán hình ảnh như siêu âm, chụp cắt lớp hoặc chụp cộng hưởng từ. Tần suất mắc các khối u loại này vẫn chưa có thống kê chính xác và trên thực tiễn hiếm gặp hơn những loại u khác như đã mô tả như trên.



Chỉ dẫn của thầy thuốc

Mặc dù là một bệnh hiếm gặp nhưng với tính chất ác tính, gây tổn thương cùng khi ở nhiều cơ quan, bệnh cảnh lâm sàng phong phú đa dạng, gặp ở nhiều lứa tuổi và có tính chất gia đình do đột biến gene, bệnh VHL luôn luôn cần được tìm kiếm ở bất cứ đối tượng nào có các thể hiện nghi ngờ để từ đó có giải pháp theo dõi và điều trị kịp thời cho người bệnh.

Các triệu chứng của bệnh von Hippel – Lindau lần Đầu tiên được các nhà nhãn khoa chú ý và mô tả vào những năm 1860 với tổn thương kiểu u mạch máu ở võng mạc (retinal angiomas) và thương tổn cũng giống ở tiểu não. Năm 1904, Eugen von Hippel, một nhà nhãn khoa người Đức đã cho công bố những khảo sát của Ông về một loại u mạch võng mạc có tính chất gia đình do đột biến gene. Năm 1926, Arvid Lindau, nhà bệnh học người Thụy Điển, lần Đầu tiên cho thấy mối liên quan giữa chứng u mạch võng mạc với các thương tổn ở não, tụy, thận…và cho tới năm 1936, thuật ngữ “hội chứng, (hay bệnh) von Hippel – Lindau” lần Đầu tiên được sử dụng và phổ biến cho tới ngày nay.

Hạ huyết áp với chế độ ăn nhiều kali, ít đường

Có hàng triệu người trên thế giới đang vật lộn với các bệnh tim mạch cũng như tăng huyết áp. Số liệu thống kê của WHO cho thấy người bệnh tim mạch do tăng huyết áp đang chiếm tỷ lệ rất cao. Các chương trình sức khỏe cộng đồng đang cố gắng hướng tới việc tuyên truyền cho mọi đối tượng về việc tăng cường các đồ ăn giàu Kali vào bữa ăn hàng ngày để phòng chống tăng huyết áp cũng như bệnh tim mạch và bệnh thận.



Thiếu hụt Kali hay còn gọi là hiện tượng hạ kali máu được coi là nghiệm trọng và có khả năng dẫn đến nguy cơ tử vong. Một trong số những hậu quả của việc thiếu hụt kali đó chính là tăng huyết áp, nhưng vẫn còn rất nhiều những dấu hiệu khác cũng do việc thiếu hụt kali gây ra đó là:
  • Mệt mỏi
  • Yếu cơ
  • Đau bụng và vọp bẻ
  • Nhịp tim không bình thường
  • Tê liệt cơ
Kali- một loại muối tốt

Có một đôi nét về kali mà không nhiều đối tượng biết đến. Đầu tiên, Kali là một loại chất khoáng thiết yêu cho cơ thể, nhưng chúng cũng là chất điện giải và đóng vai trò rất cần trong việc sự ổn định huyết áp. mặc dù có muôn vàn khảo sát có ý kiến trái ngược nhau nhưng sự thật là việc cân bằng mức độ natri- kali trong cơ thể là điều hết sức thiết yêu.

Món ăn giàu potassium có khả năng giúp hạ huyết áp

Một vài người có nồng độ kali trong máu cao thường có huyết áp thấp hơn, chính vì thế các loại thực phẩm có chứa nhiều kali đương nhiên sẽ rất tốt cho những người tăng huyết áp. Một chế độ ăn giúp cân đối được mức độ natri-kali nạp vào đó là ăn các món ăn tươi sống, và giàu kali.




Đây là một số gợi ý về món ăn giàu kali: quả bơ, rau chân vịt, nấm, súp lơ xanh, cải Brussels, cần tây, xà lách Romaine, các loại rau lá xanh, chuối, cà chua, khoai lang, cam, mơ, cá hồi hoang dã. Những hoa quả bạn chọn lựa trong chế độ ăn nên là các loại quả ít ngọt để giảm thiểu được mức độ fructose. ngoài ra bạn cũng có thể thử nước ép từ quả lựu đỏ vừa giúp hạ huyết áp vừa giúp chống lão hóa. Do trong lựu đỏ có nhiều chất chống oxi hóa nên nó cũng giúp bạn chống trọi được bệnh ung thư, tim mạch. Lựu đỏ còn chứa nhiều tannin,anthocyanin và axit ellagic nhiều hơn trà xanh và rượu vang đỏ.

Những hợp chất chống oxi hóa từ hoa quả được chứng minh là có ảnh hưởng tích cực tìm tới trình trạng tim mạch gây ra mất mạng bảo vệ được hệ thống tim mạch toàn diện. Một khảo sát khác còn cho thấy một cốc việt quất hàng ngày có khả năng giúp hạ huyết áp và giãn mạch.

Những loại sữa chua được làm từ sữa của động vật ăn cỏ giàu lợi khuẩn sẽ giúp cân bằng được huyết áp. Một khảo sát khác cũng cho thấy lợi khuẩn có trong sữa chua sẽ giúp bạn điều chỉnh được chỉ số cholesterol và đường huyết. Một lượng nhỏ sô cô la đến nguyên chất có chứa flavonoid cũng giúp vững chắc được thành mạch.

Thay đổi lối sống cũng là một cách hạ huyết áp

Nhiều đối tượng nói rằng họ muốn có một lối sống lành mạnh, nhưng rât tương đối ít đối tượng có thể theo đuổi một phương pháp nghiêm túc từ ngày này qua ngày khác. Huyết áp tác động tới tất cả các cơ quan trong cơ thể. vì vậy mục tiêu của một lối sống khỏe mạnh vẫn quan tâm nhất vào công việc như thế nào để sự ổn định được huyết áp.

Giảm bớt chỉ số muối nạp vào là một cách thông minh và một cách khác nữa là giảm chỉ số đường nạp vào. Nếu muối đã không hề tốt cho sức khỏe thì đường còn không tốt nữa.

Tránh xa những thực phẩm chế biến sẵn vì các loại này chứa nhiều muối tinh, đường tinh chế- đây mới chính là thủ phạm thực sự của bệnh tăng huyết áp mà từ đó dẫn đến nhiều bệnh khác như rối loạn chuyển hóa, xơ vữa động mạch và đột quỵ tim. Ngày càng nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng đường là nhân tố gây ra nhiều di chứng của cao huyết áp. Trên thực tế một khảo sát dã cho thấy phụ nữ uống một lon nước ngọt hằng ngày sẽ có huyết áp cao hơn một vài người uống tương đối ít hơn thế.

Làm cho như thế nào để giảm huyết áp tự nhiên

Đa phần các bác sỹ đều khuyên người bị bệnh tăng huyết áp cao nên có một lối sống lành mạnh và uống thuốc theo đơn. Nhưng nếu như có một lối sống lành mạnh đủ tốt thì có lẽ bạn cũng không cần đến những viên thuốc hạ áp nữa. Một lối sống lành mạnh không chỉ tốt cho sức khỏe nói chung, ngăn ngừa được nhiều bệnh mà còn không tiêu tốn nhiều thời gian, tiền bạc của các bạn nữa. sau đây là một vài hướng dẫn nho nhỏ:

Hít thở. Hít sâu thở chậm, kiểm soát được nhịp thở, giúp cải thiện nhịp tim, điều hoà việc co giãn mạch linh hoạt hơn do đó huyết áp cũng được điều hoà theo.

Thư giãn. Stress luôn đem đến nhiều tác động bất lợi đến cơ thể các bạn hơn các bạn nghĩ. Giận dỗi, tức giận khiến cho sinh ra những hóc môn ảnh hưởng đến các trình trạng tim mạch. bởi thế các bạn phải học phương pháp kiểm soát, thư giãn cơ thể.

Cắt giảm chỉ số cà phê và đồ uống có cồn. Cà phê nếu uống một mức độ vừa phải và uống đúng biện pháp sẽ có những khả năng rất tốt đến cơ thể. Nhưng dối với một vài người lạm dụng cà phê thì lại dẫn đến nhiều nguy cơ sức khỏe hơn, chưa kể là các loại cà phê hòa tan luôn luôn chứa lượng đường lớn hơn cà phê vì vậy mà việc cắt giảm cà phê cũng nên được tiến hành. Đồ uống có cồn cũng thế, cũng là một loại đồ uống kích thích cơ thể. do vậy việc cắt giảm hai loại đồ uống này cũng đúng tức là thư giãn cơ thể.

Đi bộ và tập thể dục thường xuyên góp phần làm việc bơm máu đi khắp cơ thể được công dụng hơn, giảm được áp lực lên động mạch. Chỉ cần 150 phút tập thể dục cường độ trung bình hoặc đi bộ hoặc 75 phút tập thể dục cường độ mạnh như bài tập HIIT sẽ giúp các bạn ngăn ngừa được nhiều bệnh tật hơn.

Giảm cân và duy trì cân nặng thích hợp luôn là một trong những biện pháp tốt nhất để ngăn ngừa các bệnh mạn tính không lây.